Nước ối ít - Nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi

Nước ối ít là gì?

Nước ối là chất lỏng trong khoang ối của tử cung khi mang thai. Nước ối là thành phần không thể thiếu để duy trì sự sống thai nhi trong suốt thai kỳ. Ở các giai đoạn khác nhau của thai nhi, nguồn nước ối sẽ khác nhau. 

Ở giai đoạn đầu thai kỳ, nước ối chủ yếu tới từ các thành phần huyết tương của phôi. Sau đó, khi các cơ quan của phôi thai bắt đầu trưởng thành, các thành phần khác như nước tiểu, hệ hô hấp, đường tiêu hóa, dây rốn, bề mặt nhau thai cũng tạo ra nước ối. 

Nước ối ít là chỉ số nước ối ở cuối thai kỳ ít hơn 300ml. Quá ít nước ối sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị cho trẻ sơ sinh (trẻ sơ sinh là chỉ thai nhi và trẻ sơ sinh ở giai đoạn trước sinh, lúc sinh và sau sinh, thường là chỉ tuần 28 đến 7 ngày sau khi sinh). Tỷ lệ nước ối quá ít thường khoảng từ 0.4-4%. Nếu thể tích nước ối dưới 50ml, tỷ lệ tử vong trong chu kỳ sinh cao tới 88%.

nuoc-oi-it

Nguyên nhân mẹ bầu bị nước ối ít

Nguyên nhân do mẹ

Nếu mẹ mắc một số bệnh như: Bệnh cao huyết áp, tiền sản giật, bệnh lý về gan, thận... sẽ gây thai kém phát triển và chức năng tái tạo nước ối. Bởi vì những bệnh lý này có ảnh hưởng đến chức năng của rau thai và tính thấm của màng ối.

Mẹ dùng một số thuốc: ức chế men chuyển. ức chế tổng hợp Prostaglandin...

Nguyên nhân do thai


Ở mọi giai đoạn của thai kỳ, nguyên nhân thường gặp nhất của thiểu ối là vỡ ối sớm. Thường có một số bất thường bẩm sinh của thai kỳ kèm theo thiểu ối. Các bất thường của thai kết hợp với thiểu ối hay gặp là:
  • Bất thường nhiễm sắc thể.
  • Dị tật bẩm sinh: tiết niệu, tiêu hóa, hô hấp...
  • Thai chậm phát triển trong tử cung.
  • Thai quá ngày sinh.
  • Nhiễm trùng thai.

Nguyên nhân do phần phụ của thai

  • Vỡ ối non, vỡ ối sớm.
  • Nhồi máu bánh rau.
  • Hội chứng truyền máu thai nhi.

Triệu chứng của mẹ bầu bị nước ối ít

lam-gi-khi-nuoc-oi-it


Hầu hết các triệu chứng của nước ối ít không có điển hình, nhưng chúng cũng có các đặc điểm sau:
  • Khi em bé di chuyển, bà bầu sẽ cảm thấy đau bụng rõ rệt, chức năng nhau thai bị giảm và hiện tượng thai máy ít đi.
  • Tử cung nhạy cảm, kích thích nhẹ sẽ dễ dẫn đến co bóp tử cung.
  • Khám thai có thể phát hiện ra, chiều cao tử cung của bà bầu, chu vi bụng nhỏ hơn tháng mang thai, hoạt động của thai nhi bị hạn chế nhiều hơn, do đó, có cảm giác tử cung quấn chặt lấy thai nhi.
  • Sau khi chuyển dạ có cơn đau rõ ràng, và hầu hết các cơn co thắt không theo quy luật. Khi thực hiện kiểm tra âm đạo sẽ phát hiện túi ối trước không rõ ràng và màng gần với phần tiếp xúc của thai nhi xuất hiện trước, khi gây vỡ màng ối chỉ lượng nước ối rất ít chảy ra.

Chẩn đoán nước ối ít như thế nào?


Nước ối quá ít có thể căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng để đánh giá sơ bộ và đưa ra phán đoán, cũng có thể được chẩn đoán bằng các phương tiện phụ trợ.

Siêu âm 


Siêu âm là phương pháp kiểm tra phụ trợ quan trọng nhất để chẩn đoán nước ối quá ít. Siêu âm có thể phát hiện ra sự giảm đáng kể thể tích nước ối. Trong ba tháng cuối của thai kỳ, vùng sâu nhất của nước ối (AFV) ≤ 5 cm là  nước ối quá ít, ≤1cm là thiểu ối nghiêm trọng.

Hiện nay, phương pháp chỉ số nước ối (AFI) thường được sử dụng để chẩn đoán nước ối ít khi mang thai, chính xác và đáng tin cậy hơn AFV. Khi chỉ số nước ối (AVI) ≤5cm được chẩn đoán là quá ít nước ối, ≤ 8cm là nước ối hơi ít.

Siêu âm cũng có thể phát hiện hạn chế tăng trưởng của thai nhi, các kì dị như thận của thai nhi phát triển không hoàn toàn, niệu quản hoặc tắc nghẽn niệu đạo của thai nhi.

Đo trực tiếp thể tích nước ối


Khi màng bị vỡ, vật chứa được đặt vào âm hộ để lấy nước ối, hoặc nước ối được thu thập bởi máy hút trong khi mổ lấy thai. Tuy nhiên, phương pháp này không thể được chẩn đoán sớm và không tốt cho điều trị.

Theo dõi thai nhi 


Khi nước ối quá ít, chức năng dự trữ nhau thai của thai nhi bị giảm và nó có thể không phản ứng khi thử (NST). Vào thời điểm sinh con, điều chủ yếu uy hiếp thai nhi là tử cung co bóp khiến dây rốn bị căng thẳng, và nhịp tim của thai nhi có thể bị giảm tốc hoặc giảm tốc cuối kỳ. Theo dõi thai nhi có thể phát hiện tình trạng tim thai.

Nước ối ít ảnh hưởng như thế nào tới thai nhi?



an-gi-khi-bi-nuoc-oi-it

Tác động đến thai nhi

  • Quá ít nước ối sẽ dẫn đến sự gia tăng đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ em chu kỳ sinh.

Khi nước ối quá ít, tỷ lệ tử vong trong chu kỳ sinh cao gấp 13 lần, khi nước ối quá ít, tỷ lệ tử vong khi mới sinh tăng 47 lần. Nguyên nhân chính gây tử vong là do thiếu oxy và dị tật thai nhi.
  • Nước ối quá ít có thể gây dị tật thai nhi.

Nếu nước ối quá ít xảy ra quá sớm, sự kết dính giữa màng và cơ thể sẽ gây ra dị tật thai nhi, thậm chí là thiếu chi; Nếu xảy ra vào giữa và cuối thai kỳ, da của thai nhi bị khô, giống như giấy da, áp lực ngoài tử cung ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi, gây biến dạng cơ xương của thai nhi, như trẹo cổ, lưng cong, bàn tay và bàn chân biến dạng. Bẩm sinh không có thận mà dẫn đến nước ối ít có thể gây ra hội chứng Potter (phổi phát triển không toàn vẹn, mũi phẳng, vị trí tai thấp, bàn tay và chân cung hình xẻng), hầu hết trẻ em tử vong sau khi sinh.
  • Phổi thai nhi phát triển không toàn vẹn

Nguyên nhân có thể là: Khiếm khuyết trong sự phát triển của phổi, không thể bài tiết chất lỏng để duy trì lượng nước ối, do nước ối ít, tử cung đè lên ngực của thai nhi, ảnh hưởng đến sự phát triển của vách phổi và giãn nở phổi, thiếu dịch thể hít vào lá phổi. Nếu mang thai bình thường, việc hít nước ối thích hợp rất quan trọng cho việc mở rộng và phát triển của phổi thai nhi.

Các mẹ bầu lưu ý rằng nước ối ít không ảnh hưởng trực tiếp đến việc sinh con. Chỉ khi xuất hiện nước ối ít và có tình hình  thai nhi chậm phát triển mới cần phải sinh mổ sớm. Trước tiên, các bà mẹ có ít nước ối nên lắng nghe lời khuyên của bác sĩ để xem họ có cần sinh sớm hay không. Nếu không, chỉ cần thực hiện theo dõi tim thai và thực hiện một số điều trị cơ bản để đón chờ thời gian dự sinh.

Tác động đến thai phụ


Quá ít nước ối có thể dẫn đến việc gia tăng tỷ lệ phẫu thuật và tỷ lệ phá thai. Trong quá trình sinh nở, nước ối quá ít thường xuất hiện co thắt tử cung nguyên phát thiếu lực hoặc co thắt không đều, tử cung giãn chậm, chèn ép dây rốn, suy thai…, dễ bị kéo dài lần sinh mổ hoặc dẫn đến tăng tỷ lệ mổ lấy thai.

Ngay cả khi sinh thường, việc sinh con tương đối khó khăn và dễ bị chấn thương khi sinh. Ngạt ở trẻ sơ sinh và các bệnh sơ sinh khác có xu hướng xảy ra sau khi thai nhi ra đời, và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh tăng đáng kể.

No comments